1. Nhận thức về bạo lực trên cơ sở giới
“Bạo lực trên cơ sở giới” hay “bạo lực giới” là bạo lực nhằm vào một người dựa trên cơ sở giới tính của người đó. Bạo lực giới bao gồm các hành động gây ra những tổn hại về thể chất, tâm lý và tình dục, những đe dọa dẫn đến những hành động trên, sự ép buộc và những hình thức khác nhằm tước bỏ tự do của người đó . Khái niệm này được sử dụng để phân biệt bạo lực thông thường với bạo lực nhằm vào các cá nhân hoặc nhóm cá nhân trên cơ sở sự phân cấp quyền lực do những khác biệt giới gây ra, nạn nhân không chỉ là phụ nữ mà còn bao gồm cả nam giới và trẻ em trai.
Cao uỷ Liên hợp quốc về người tị nạn (UNHCR 2003) sử dụng thuật ngữ bạo lực trên cơ sở giới dựa trên Điều 1 và 2 của Tuyên bố của Đại hội đồng Liên hợp quốc về Xoá bỏ Bạo lực đối với Phụ nữ năm 1993 và Đề xuất thứ 19, đoạn 6 của Kỳ họp thứ 11 Hội đồng CEDAW. Theo đó, bạo lực trên cơ sở giới là bạo lực nhằm vào một người dựa trên cơ sở giới tính của người đó. Bao gồm các hành động gây ra những tổn hại về thể chất, tâm lý và tình dục, những đe doạ dẫn đến những hành động nói trên, sự ép buộc và những hình thức khác nhằm tước bỏ tự do của người đó...
Bạo lực trên cơ sở giới được hiểu là bao gồm nhưng không giới hạn ở những hình thức sau:
a) Bạo lực thể chất, tình dục và tâm lý xảy ra trong gia đình bao gồm đánh đập, bóc lột tình dục, lạm dụng tình dục trẻ em trong gia đình, bạo lực liên quan đến của hồi môn, cưỡng hiếp trong hôn nhân, làm tổn thương bộ phận sinh dục phụ nữ, và những phong tục truyền thống khác tổn hại đến người phụ nữ, bạo lực ngoài mối quan hệ vợ chồng và bạo lực liên quan đến sự bóc lột.
b) Bạo lực thể chất, tình dục và tâm lý xảy ra trong cộng đồng bao gồm cưỡng hiếp, lạm dụng tình dục, đe doạ và quấy rối tình dục tại nơi làm việc, tại các cơ sở giáo dục, và bất kỳ đâu, buôn bán phụ nữ và ép buộc hoạt động mại dâm.
c) Bạo lực thể chất, tình dục và tâm lý gây ra do nhà nước thực hiện hoặc được nhà nước bao che, bỏ qua, cho dù xảy ra ở bất kỳ nơi nào.
Tính đến thời điểm hiện tại, trong các văn bản pháp lý ở Việt Nam, chưa có một văn bản nào đưa ra định nghĩa về bạo lực giới hay bạo lực trên cơ sở giới. Luật Bình đẳng giới 2006 đã đề cập đến thuật ngữ “bạo lực trên cơ sở giới” là một trong các hành vi bị nghiêm cấm tại Điều 10. Tuy nhiên, Luật này không đưa ra định nghĩa thế nào là bạo lực giới. Do vậy, khái niệm bạo lực giới ở Việt Nam được hiểu như định nghĩa bạo lực giới đưa ra năm 2003 của Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn.
Bạo lực giới là vấn đề của mọi thời đại và mang tính toàn cầu. Phụ nữ, nam giới, trẻ em gái, trẻ em trai đều có nguy cơ bị bạo lực giới. Tuy nhiên, phụ nữ và trẻ em gái là nhóm đối tượng có nguy cơ cao nhất và chịu tác động nặng nề nhất do bạo lực giới gây ra. Các nhóm người dễ bị tổn thương, nhóm người có hoàn cảnh đặc biệt có nhiều nguy cơ phải hứng chịu bạo lực giới. Vấn đề này xảy ra nghiêm trọng hơn ở các nước với thiết chế xã hội nam giới có nhiều quyền hơn phụ nữ, phụ nữ bị đối xử bất công và rơi vào thế lệ thuộc .
Các hình thức bạo lực giới thường xảy ra như: Bạo lực gia đình, mua bán người, mại dâm, quấy rối tình dục, lựa chọn giới tính khi sinh,…Các hành vi bạo lực nói chung có thể được xem xét thành hai nhóm: Bạo lực giới trong phạm vi gia đình và bạo lực trong cộng đồng.
2. Chính sách pháp luật Việt Nam về bạo lực giới.
Bạo lực giới là vấn đề không của riêng quốc gia, vùng lãnh thổ nào, trong đó có Việt Nam. Điều tra quốc gia về bạo lực đối với phụ nữ ở Việt Nam năm 2019 được thực hiện với sự hỗ trợ của Bộ Ngoại giao và Thương mại Úc và UNFPA cho thấy có rất ít thay đổi về tỷ lệ bạo lực đối với phụ nữ kể từ cuộc điều tra đầu tiên được thực hiện vào năm 2010. Kết quả điều tra cho thấy, 62,9% phụ nữ ở Việt Nam từng trải qua một hoặc hơn một hình thức bạo lực, bao gồm bạo lực thể xác, tình dục, trong xã hội Việt Nam khi có 90,4% nạn nhân của bạo lực không tìm kiếm bất kỳ sự trợ giúp nào từ chính quyền, một nửa trong số đó chưa từng kể với ai về tình trạng bị bạo lực của mình. Ước tính bạo lực đối với phụ nữ gây thiệt hại cho Việt Nam tương đương 1,81% GDP vào năm 2018 . Đây là vấn đề đáng báo động và các khuyến nghị từ Điều tra quốc gia về bạo lực đối với phụ nữ năm 2019 đã nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường các biện pháp can thiệp trong giai đoạn tới . Trong đó, biện pháp hoàn thiện các thiết chế pháp lý về phòng, chống bạo lực giới có ý nghĩa quan trọng, là điều kiện tiên quyết để xây dựng và bảo đảm các chương trình hành động khác mang tính xã hội.
Việt Nam là quốc gia tích cực trong việc xây dựng chính sách và luật pháp nhằm thúc đẩy bình đẳng giới và chấm dứt bạo lực đối với phụ nữ. Cụ thể, Việt Nam đã phê chuẩn Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) năm 1981 và cam kết với kế hoạch hành động của Hội nghị quốc tế về Dân số và phát triển tại Cai- rô năm 1994 và Cương lĩnh hành động của Hội nghị quốc tế về phụ nữ tại Bắc Kinh năm 1995. Nỗ lực của Việt Nam trong thực hiện và báo cáo về việc thực hiện Công ước CEDAW cũng như các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ đã góp phần tạo ra một khuôn khổ pháp lý và chính sách để giải quyết tình trạng bạo lực giới ở Việt Nam (UNFPA, 2012) mặc dù Việt Nam chưa có một quy định pháp lý chung về bạo lực trên cơ sở giới.
Bên cạnh đó, nhiều văn bản pháp lý quan trọng liên quan đến bạo lực giới đã được thông qua như: Luật Bình đẳng giới 2006; Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2007,… nhiều Chương trình, kế hoạch hành động về phòng chống bạo lực giới được xây dựng và thực hiện như Chương trình hành động quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình đến năm 2020, Kế hoạch hành động quốc gia phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em giai đoạn 2020 – 2025,…Điều này cho thấy, Việt Nam đã thực sự coi bạo lực giới là một vấn nạn nghiêm trọng của xã hội và có những đối sách tương đối toàn diện để tuyên chiến với nó dưới góc độ xã hội và pháp lý.
2.1 Nhóm quy định về phòng, chống bạo lực giới trong gia đình
Các quy định pháp luật về bạo lực gia đình được thể hiện trong Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (2007) và các văn bản pháp luật khác như Luật Bình đẳng giới (2006), Bộ luật Dân sự (2015), Bộ luật Hình sự (2015), Luật Hôn nhân và Gia đình (2014), Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em (2016)…
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 đã đưa ra 09 hành vi bạo lực gia đình (Điều 1). Nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình dựa trên cơ sở kết hợp và thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng, chống bạo lực gia đình, lấy phòng ngừa là chính, chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư vấn, hoà giải phù hợp với truyền thống văn hoá, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam (Điều 3).
- Các quy định pháp luật về phòng ngừa bạo lực gia đình
Theo quy định của Luật phòng chống bạo lực gia đình năm 2007, các hoạt động phòng ngừa bạo lực gia đình gồm: thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình, hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình, tư vấn, góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư về phòng ngừa bạo lực gia đình (Chương 3). Nội dung tuyên truyền và các hình thức truyền thông về phòng, chống bạo lực gia đình được quy định khá rõ trong Điều 10 và Điều 11 của Luật này.
- Các chế tài xử lý hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình
Các quy định xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình được thể hiện tại Điều 42, 43, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Tùy vào tính chất, mức độ vi phạm, người có hành vi vi phạm có thể bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Xử lý hành chính về các hành vi bạo lực gia đình được quy định cụ thể Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Nghị định 144/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình.
Dưới góc độ hình sự, tùy vào tính chất, mức độ nguy hiểm, các hành vi bạo lực gia đình có thể cấu thành các tội như: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác(Điều 134) hoặc Tội hành hạ người khác (Điều 140) hoặc Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình (Điều 181)…
- Các quy định pháp luật về bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình
Theo Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, nạn nhân bạo lực gia đình được bảo vệ khỏi hành vi bạo lực gia đình bằng các biện pháp: buộc người gây bạo lực chấm dứt ngay hành vi bạo lực gia đình; cấp cứu nạn nhân bạo lực gia đình; xử lý vi phạm hành chính hoặc pháp luật về tố tụng hình sự đối với người có hành vi bạo lực gia đình; áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc với người có hành vi bạo lực gia đình. Bên cạnh đó, nạn nhân bạo lực gia đình được hỗ trợ chăm sóc y tế, tư vấn và hỗ trợ các nhu cầu thiết yếu.
Phòng, chống những hủ tục gây hại đối với phụ nữ như tảo hôn, hôn nhân ép buộc, lựa chọn giới tính thai nhi.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định rõ về khái niệm “cưỡng ép hôn nhân” và “tảo hôn” (Điều 3). Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về Tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ tại Điều 181. Bên cạnh đó, việc lựa chọn giới tính thai nhi cũng bị pháp luật nghiêm cấm (Điều 5, Luật Hôn nhân và gia đình)
2.2. Nhóm quy định về phòng chống bạo lực giới trong cộng đồng
Các hình thức bạo lực giới phổ biến trong cộng đồng bao gồm cưỡng dâm, quấy rối tình dục, buôn bán người, cưỡng ép làm gái mại dâm. Trong phạm vi bài viết, tác giả tập trung vào các hình thức mua bán phụ nữ và trẻ em, mại dâm và quấy rối tình dục.
2.2.1 Phòng, chống mua bán phụ nữ và trẻ em
Mua bán người nói chung và mua bán phụ nữ, trẻ em là tội phạm nguy hiểm, xâm phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm con người. Trong số nạn nhân bị mua bán thì nạn nhân là nữ chiếm tỷ lệ 80% , tội phạm này thường được thực hiện dưới hình thức có tổ chức và xuyên quốc gia. Vì vậy, thiết lập cơ chế pháp lý đấu tranh với tội phạm này không chỉ là hệ thống pháp luật quốc gia mà cần thêm những văn bản pháp lý quốc tế.
Trong hoạt động lập pháp, Việt Nam đã có những mối quan tâm đặc biệt trong việc tạo ra một khung pháp lý để chống lại nạn mua bán người nói chung và mua bán phụ nữ nói riêng. Trước tiên phải kể đến Bộ luật Hình sự các thời kỳ (1985, 1999, 2015), Bộ luật Lao động năm 2019, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (2020), Luật Bảo vệ, Chăm sóc, Giáo dục trẻ em (2004) đã quy định đầy đủ các tội liên quan đến mua bán phụ nữ và trẻ em được thực hiện trong quá trình mua bán người. Bên cạnh đó, nhiều văn bản pháp luật Việt Nam đã hàm chứa các quy định về vấn đề mua bán phụ nữ và trẻ em như: Luật phòng chống mua bán người (2011), Luật Xử lý vi phạm hành chính (2012); Pháp lệnh Phòng chống mại dâm (2003); Luật Hôn nhân và Gia đình (2014) và các văn bản pháp luật có liên quan khác.
Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011 không giới hạn việc mua bán người chỉ đối với phụ nữ và trẻ em, cũng không còn xác định cụ thể việc mua bán người là phải ra nước ngoài hoặc qua biên giới, và có đề cập đến những mục đích mua bán người khác chứ không chỉ mại dâm. Để phòng ngừa các hành vi lợi dụng việc kết hôn, môi giới hôn nhân để buôn bán người, pháp luật về hôn nhân có yếu tố nước ngoài đã có những quy định cụ thể và chi tiết về trình tự, thủ tục kết hôn. Đối với thủ tục đăng ký kết hôn, nếu kết quả phỏng vấn, thẩm tra, xác minh cho thấy việc kết hôn thông qua môi giới bất hợp pháp; kết hôn giả tạo không nhằm mục đích xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững; kết hôn không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc; lợi dụng việc kết hôn để mua bán phụ nữ, xâm phạm tình dục đối với phụ nữ hoặc vì mục đích trục lợi khác thì sẽ bị từ chối.
Người thực hiện hành vi mua bán người hoặc các hành vi có liên quan đến hành vi này tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Bộ luật Hình sự năm 2015 hiện hành không còn quy định về tội mua bán phụ nữ như trước đây, có 2 điều luật quy định về mua bán người là: Mua bán người (điều 150) và mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151). Hình phạt đối với loại tội phạm này tương đối nghiêm khắc (cao nhất lên tới tù 20 năm hoặc chung thân), quy định hình phạt cao thể hiện thái độ quyết liệt của Nhà nước ta trong đấu tranh với loại tội phạm nguy hiểm này.
2.2.2 Mại dâm
Mại dâm và buôn bán người có quan hệ ràng buộc lẫn nhau, thực tế buôn bán người, nhất là phụ nữ, trẻ em vì mục đích mại dâm hiện nay thường được “ẩn náu” dưới các hoạt động kinh doanh dịch vụ khác như karaoke, massage,… Nhiều cơ sở kinh doanh đã tìm cách hoạt động biến tướng, trá hình với các biểu hiện ngày càng nghiêm trọng như: hoạt động quá giờ quy định, sử dụng băng đĩa, ca nhạc có nội dung cấm phổ biến; tổ chức múa khoả thân, khiêu dâm, kích dục, làm tình; sử dụng heroin, thuốc lắc; biến địa điểm kinh doanh thành nơi ăn chơi sa đọa; hoạt động mại dâm hoặc môi giới mại dâm,... Chính vì vậy, việc tăng cường phòng, chống tệ nạn mại dâm gắn liền với công tác quản lý các cơ sở kinh doanh dịch vụ có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác phòng, chống buôn bán người.
Hiện nay, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về quản lý các hoạt động dịch vụ bị lợi dụng để hoạt động mại dâm đã từng bước được hoàn thiện tạo hành lang pháp lý thuận lợi trong công tác phòng chống tệ nạn mại dâm, ngăn ngừa tình trạng buôn bán phụ nữ, trẻ em vì mục đích mại dâm. Văn bản quy định tập trung nhất về vấn đề mại dâm là Pháp lệnh phòng, chống mại dâm số 10/2003/PL-UBTVQH11 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
- Các quy định xử lý hành vi vi phạm liên quan đến mại dâm
Pháp lệnh mại dâm đã liệt kê các hành vi liên quan đến mại dâm bị nghiêm cấm, bao gồm: a) mua dâm; b) bán dâm; c) chứa mại dâm; d) tổ chức hoạt động mại dâm; e) cưỡng bức mại dâm; f) môi giới mại dâm; g) bảo kê mại dâm; h) lợi dụng kinh doanh dịch vụ để hoạt động mại dâm; i) các hành vi khác liên quan đến hoạt động mại dâm theo quy định của pháp luật. Các quy định xử lý những hành vi vi phạm liên quan đến mại dâm được đề cập đến trong Pháp lệnh phòng, chống mại dâm (từ Điều 22 đến 29).
Bên cạnh đó, Bộ luật Hình sự quy định việc trừng trị các hành vi “chứa mại dâm” (Điều 327), “môi giới mại dâm’ (Điều 328), “giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi” (Điều 145). Điều 7 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 nghiêm cấm “hành vi dụ dỗ, lừa dối, dẫn dắt, chứa chấp, ép buộc trẻ em hoạt động mại dâm”.
2.2.3 Quấy rối tình dục
“Quấy rối tình dục” có thể hiểu là hành vi có tính chất tình dục gây ảnh hưởng tới nhân phẩm của nữ giới và nam giới, đây là hành vi không được chấp nhận, không mong muốn và không hợp lý làm xúc phạm đối với người nhận, gây ra bất ổn, đáng sợ, thù địch và khó chịu cho người bị quấy rối. Luật Lao động sửa đổi, bổ sung năm 2019 đưa ra định nghĩa về quấy rối tình dục nơi làm việc là hành vi có tính chất tình dục của bất kỳ người nào đối với người khác tại nơi làm việc mà không được sự đồng ý của người đó. (Theo khoản 9 Điều 3).Nơi làm việc được hiểu là là bất cứ địa điểm nào mà người lao động thực tế làm việc theo thỏa thuận hoặc phân công của người sử dụng lao động. Theo quy định của pháp luật, những địa điểm hay không gian có liên quan đến công việc như các hoạt động xã hội, tập huấn, hội thảo, bữa ăn, chuyến đi công tác chính thức, các hoạt động giao tiếp qua phương tiện điện tử, phương tiện đi lại do người sử dụng lao động bố trí từ nơi ở đến nơi làm việc và ngược lại, nơi ở do người sử dụng lao động cung cấp và địa điểm khác do người sử dụng lao động quy định đều được tính là nơi làm việc.
Theo Nghị định số 167/2013/NĐ-CP, người thực hiện hành vi quấy rối tình dục sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự an toàn xã hội; Phòng chống tệ nạn xã hội; Phòng cháy chữa cháy; Phòng ngừa và kiểm soát bạo lực gia đình. Cụ thể, tại điểm a khoản 1 Điều 5, Nghị định này quy định những người có cử chỉ, lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác thì bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng. Theo văn bản này, cử chỉ thô bạo, trêu ghẹo, khiêu khích, xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác đều được xem là tội quấy rối tình dục.
Ngoài ra, trường hợp hành vi quấy rối xúc phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của người khác có thể bị xử lý hình sự về tội làm nhục người khác theo quy định tại Điều 155 Bộ Luật Hình sự 2015: “Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm”. Người phạm tội có thể bị xử lý các khung hình phạt cao hơn nếu có các yếu tố tăng nặng.
Bên cạnh đó, để xử lý hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc, Bộ luật Lao động năm 2019 cũng cho phép người lao động được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không cần phải báo trước khi bị quấy rối và người lao động nếu có hành vi quấy rối người khác tại nơi làm việc sẽ bị sa thải. Quấy rối tình dục tại nơi làm việc là một hình thức phân biệt đối xử liên quan đến giới tính, gây ảnh hưởng xấu tiêu cực tới môi trường lao động, phá vỡ sự bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ. Nó dẫn đến những tác động xấu về tâm lý, thậm chí gây lo lắng, căng thẳng và tổn thương về cả thể xác lẫn tinh thần cho người bị hại. Môi trường công sở từ đó trở nên thiếu an toàn, hiệu suất cũng như năng suất làm việc bị giảm sút. Vì vậy, các hành vi quấy rối, xâm phạm tình dục nơi làm việc cần được đấu tranh mạnh mẽ để ngăn chặn và loại bỏ, tạo điều kiện cho tất cả mọi lao động phát huy tối đa khả năng để cống hiến hết mình cho nơi mà họ đã lựa chọn gắn bó.
3. Một số khuyến nghị
Với những chính sách pháp luật đã nêu ở phần (2), có thể thấy Chính phủ Việt Nam đã và đang nỗ lực trong việc xây dựng hành lang pháp lý quy định, xử lý các hành vi là biểu hiện của bạo lực trên cơ sở giới: như bạo lực giới trong gia đình, mua bán phụ nữ và trẻ em, quấy rối tình dục, mại dâm… nhằm đảm bảo và cải thiện môi trường sống và làm việc lành mạnh cho phụ nữ và trẻ em gái. Tuy nhiên, hiện nay, quy định về những hành vi bạo lực trên cơ sở giới còn nằm rải rác ở rất nhiều văn bản pháp luật khác nhau và Việt Nam cần có quan điểm chính thức ví dụ như một định nghĩa về bạo lực giới trong một văn bản pháp luật cụ thể. Đồng thời, cũng cần có các quy định về các biểu hiện cụ thể của bạo lực trên cơ sở giới để giúp cộng đồng nhận thức một cách rõ ràng nhất về bạo lực giới, bạo lực giới bao gồm cả hình thức bạo lực tinh thần, bạo lực tâm lý,…
Nhìn chung, chính sách liên quan đến phòng chống bạo lực trên cơ sở giới được quan tâm khá đầy đủ và toàn diện, để thực thi những chính sách này trong thực tế đem lại hiệu quả cao là một thách thức lớn. Các tội phạm liên quan đến xâm hại tình dục, bạo lực gia đình luôn là nhóm tội có độ ẩn cao vì đại bộ phận nạn nhân còn chưa dám lên tiếng, cam chịu sống trong bạo lực, xâm hại nên công tác phát hiện, xử lý còn nhiều khó khăn. Vì vậy, công tác quản lý tại địa phương càng thể hiện vai trò quan trọng, nhất là công tác phối hợp và giám sát giữa các cơ quan chức năng trong việc kiểm soát và xử lý các hành vi bạo lực giới.
Cùng với đó, các hoạt động thu thập thông tin, dữ liệu về bạo lực giới cần được chú trọng hơn nữa để nắm tình hình bạo lực giới thực tế diễn ra và phục vụ cho các phân tích chính sách một cách kịp thời. Để đạt được mục tiêu này thì công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật của toàn cộng đồng, phòng ngừa, đấu tranh với bạo lực giới lại càng thể hiện tầm quan trọng. Vì vậy, trong thời gian tới cần tiếp tục làm tốt hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bạo lực giới, đa dạng hóa hình thức tuyên truyền để cộng đồng có thể nhận diện những hành vi bạo lực, kịp thời ngăn chặn, tố cáo những hành vi này./.